Công ty TNHH Công Nghệ Trí Việt chuyên cung cấp :
- Mực in date ,mực in NSX, HSD cho ngành thực phẩm thủy hải sản
- Ruy băng ,ruban ,ribbon,mực dung môi của máy in date tự động
- Máy hàn túi ,máy hút chân không ,máy co màng ....
- Máy đóng gói ,chế biến thực phẩm ,y dược
- Thiết bị tự động hóa , đóng cắt các hãng : LS ,OMRON,AUTONIS ,SIMEN...
Máy hút chân không 1 buồng loại DZ300A đóng gói bằng chân không. Thích hợp dùng trong việc đóng gói các loại thịt, các loại củ quả, các loại dược phẩm, hoá chất…Có thể bảo quản hàng hoá đóng gói không bị biến chất, không bị hư hỏng. Có kết cấu gọn nhẹ dễ di chuyển.
1. Thông số kỹ thuật của máy hút chân không gia đình :
- Model : DZ-300A - Công suất hút: 0.045MP - Nguồn điện: 220V/50hz - Kích thước máy: 350x140x73mm - Trọng lượng máy: 2.5kg Máy hút chân không gia đìnhphù
hợp với nhiều loại bao bì, đóng gói cho nhiều loại sản phẩm khác
nhau: thiết bị dược phẩm, hoa quả, thực phẩm, thuỷ sản, đặc sản địa
phương, nguyên liệu công nghiệp hoá chất, linh kiện điện tử và các sản
phẩm quân dụng … ở dạng dich thể, dạng rắn, dạng bột, dạng keo
dính…đều có thể đóng gói bằng máy hút chân không gia đình Máy hút chân không gia đình có tác dụng chống oxy hoá và loại trừ các loại vi khuẩn. Kết quả của máy hút chân không gia đình
là giữ cho sản phẩm tươi ngon, giữ được mùi vị, màu sắc, đảm bảo chất
lượng, kéo dài thời gian bảo quản. Đối với những sản phẩm mềm, sau
khi đóng gói bằng máy hút chân không gia đình sẽ giảm bớt kích thước giản phẩm vì khi sử dụng máy hút chân không gia đình thì các sản phẩm sẽ nhỏ gọn hơn vì thể tích khí trong bao bì được rút ngắn, thuận tiện cho vận chuyển và dự trữ. Máy hút chân không gia đình sử dụng tương đối đơn giản và điều quan trọng nữa là máy hút chân không gia đình của công ty Trí Việt không kén bao bì, loại bao bì nào cũng có thể làm việc được, máy hút chân không gia đình với cấu tạo có vòi hút vì vậy nó không giới hạn bởi kích thước buồng như máy hút chân không một buồng, máy hút chân không hai buồng
Máy hút chân không chè là loại máy hút
chân không được sử dụng dành riêng cho hút chân không chè, ngoài máy
hút chân không chè được sử dụng hút chân không cho chèmáy hút chân không chè còn được dùng để hút chân không các loại thực phẩm khác nữa .
Máy hút chân không chè với cấu tạo đơn giản và máy hút chân không chè có
vật liệu cấu tạo là inox nên nó rất phù hợp với các sản phẩm thực phẩm.
Máy hút chân không chè được sử dụng phổ biến ở các vùng nguyên liệu chè
như Thái Nguyên, Phú thọ, Ninh Bình... ngoài ra máy hút chân không chè
còn được dùng cho các nhà máy chế biến và máy hút chân không chè là một
bộ phận của nhóm các máy đóng gói. Thông số kỹ thuật : - Điện áp : 220 V - Công suất : 1,2 Kw - Trọng lượng : 25 Kg - Chiều dài thanh hàn : 300mm - Kích thước buồng:330x100x250
Thông số kỹ thuật : - Điện áp : 220 V - Công suất : 1,2 Kw - Trọng lượng : 45 Kg - Chiều dài thanh hàn : 300mm x 2
ĐÓNG GÓI CHÍNH LÀ NHÂN TỐ LÀM CHO BAO BÌ TRỞ NÊN HOÀN HẢO
Đóng
gói chặt khi đầy là nhân tố quan trọng nhất và là mục đích
của việc đóng gói. Tuy nhiên, cụm từ “ tight” không có ý nghĩa
ghì trong cách này nhưng ý nghĩa được quyết định ở chức năng
đóng gói và những đòi hỏi đặc biệt của từng việc đóng gói
tương ứng. Việc bao bọc này giống như như việc ngăn không khí
vào và giữ hương vị của sản phẩm như thuốc tây hay cà phê.
Nguyên
vật liệu được sử dụng ảnh hưởng lớn tới khả năng đóng gói
kín của bao bì. Từ khi xuất hiện các nguyên vật liệu có liên
quan thì có rất nhiều số liệu có sẵn liên quan đến tính chất
bảo vệ. Bảng thứ nhất cho thấy sự di chuyển những đặc tính
loại màng đến không khí và hơi nước.
Bao
bì được đóng gói bằng cách sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau. Điều này liên quan tới những đòi hỏi của mực in trong
phạm vi của những phương pháp đóng gói quan trọng nhất.
Hàn
có nghĩa là gắn dính những nguyên vật liệu lại với nhau bằng
cách dùng áp suất và nhiệt. Những mẫu tiêu biểu là những
gói làm từ màng PE như những loại sản phẩm sữa hay sản phẩm
cần an toàn vệ sinh cũng như cũng những bao bì dùng trong siêu
thị. Hàn seal thường được tiến hành không phải như cắt nguyên
liệu mà là thường sử dụng những dây điện nhiệt cùng một lúc
và cắt phim.
Mực
in phải chống lại sức nóng chuyển tải trong thời gian hàn seal
trong khi không dính vào dụng cụ hàn vì việc hàn dính thường
diễn ra tại nơi phần in. Có thể mực in tràn vào phần màng
nóng chảy nhưng không ảnh hưởng gì đến độ bền mối hàn. Cho nên
rất cần thiết để chọn một loại mực thích hợp mà không ảnh
hưởng đến độ chắc của vết hàn.
Trong
những năm gần đây mực gốc nước đã đạt được vị trí quan trọng
trong lĩnh vực in trang trí và in giấy trên tường như trong in
nhãn và in lót.
Việc
dùng mực gốc nước cho in bao bì thì ít hơn nhiều, đây là lĩnh
vực mà mực dung môi chiếm ưu thế. Tuy nhiên ngành công nghiệp
in đang cho thấy xu hướng dùng mực gốc nước để làm bao bì như
bao bì cho thực phẩm chất lượng cao, dược phẩm, mỹ phẩm và
thuốc lá.
Lý
do theo khuynh hướng này là do sự thuận tiện rõ ràng của hệ
thống mực gốc nước, chất mà có thể thay đổi dễ dàng chất
khí dư thừa trong mực mà không cần sự tinh lọc tốn kém, làm
giảm bớt sự dư thừa dung mội trong trong thành phẩm, làm giảm
nhu cầu an toàn cho công trình trong qúa trình vận hành của
mực, làm giảm rủi ro đối với sức khỏe cũng như nâng cao mặt
tích cực trong tính chất của mực nước. Sự bất tiện thể hiện
ở chổ là làm giảm tốc độ sản xuất do thời gian khô lâu, tiêu
thụ nhiều năng lượng cho việc khô mực, đậc tính in kém và đôi
khi khả năng chịu nhiệt thấp trong thành phẩm khi dùng mực
nườc. Đồi với những đòi hỏi về in bao bì có dùng mực nước
thì cần thiết tạo nên những đặc tính phù hợp với khuôn
in.Điều này rõ ràng rất là quan trọng do sự khác biệt cơ bản
giữa mực gốc nước và mực dung môi.
THÀNH PHẦN CỦA MỰC GỐC NƯỚC DÙNG TRONG IN ỐNG ĐỒNG.
-Có nghĩa là mực dược làm dày lên bằng nước và không có dung môi.
-Là mực mà trong đó dung môi chỉ chiếm 35 %
-Là mực mà dung môi chiếm tối đa chỉ 5%.
-Là mực mà dung mối chiếm thấp hơn 1%.
Trong
lúc này thì htì người sản xuất và người dùng mực để in thì
theo định nghiã gốc nước là dung môi không qúa 5%. Theo nguyên
lý thì mực in gốc nước có cấu trúc giống như mực dung môi vì
trong hai loại mực thì bột màu dược sử dụng như:
-Bột màu vô cơ cho màu đen.
-Titan dioxi cho mực trắng.
-Bột kim loại cho vàng hay bạc.
-Bột mờ cho những hiệu ứng màu đặc biệt.
-Bột màu tổng hợp như bột ganic Azo hay bột polycyclic dùng cho màu trung.
Trong
trường hợp cụ thể màu sắc hòa tan thì được sử dụng. Tuy
nhiên do đặc tính bền sáng thấp nhưng không thành vấn đề. Khi
bột màu không có khả năng bám chặt nền, tác nhân kết dính
cần phải có để kết dính lớp mực và cho nó bám chặt lên
nền. Những tác nhân này là:
-Nhựa bán tổng hợp giống như chất nitrocellulose.
-Nhựa tổng hợp như nhựa acrylate, nhựa cetone và polyurethan.
Do
tác nhân kết dính trong trạng thái đặc nó cần phải được phân
hủy. Vì thế tác nhân kết dính cùng dung môi đều là chất trung
gian của bột màu I phân tán.
Trong
lĩnh vực in bao bì thì ethanol và ethylacetate là hai dung môi
chủ yếu được sử dụng. Trong khi nước là dung môi chính trong
mực gốc nước. Để làm dịu sự tán sắc do đòi hỏi chính của
một vài phụ gia có sẵn như :
-Đánh sáp để tăng sự mài mòn cũng như chống lại trày xước.
-Các tác nhân làm mềm khác.
-Dầu nhớt
-Các nhân tố phụ
-Tác nhân chống tĩnh điện.
-Tác nhân làm ẩm và chống bọt.
-Trong
qúa trình làm khô thì dung môi bốc hơi và các thành phần khác
của lớp mực đông lại. Rõ ràng rằng lớp mực này không cho
thấy khả năng chịu nhiệt đối với những dung môi được sử dụng
để pha chế mực. Tuy nhiên dung môi hữu cơ như như Ethanol và
Ethylacelat thì không sử dụng phổ biến cho nên thiếu độ chịu
nhiệt thì thật tình không phải là một nhược điểm gì cả̀.
-Dung
dịch amoniac hay chất hữa cơ amin được thêm vào công thức của
mực. Người ta trung hòa một vài axit có trong nhựa để tạo nên
bọt nhựa nước. Trong qúa trình làm khô không chỉ hới nước bốc
hơi mà còn mùi amoniac độc và mùi của amin cũng thoát ra để
lại một lớp mực in chứa bột màu và chất phụ gia bám chặt
vào bề mặt.
-Vấn
đề trung hòa của axit nhựa thì có thể thay đổi được lúc
thành phẩm. Kết qủa là sản phẩn sau khi được in lại có khả
năng chống thấm n7ưóc nhưng không có khả năng chống amoniac hay
amine và các chất xúc tác alcolic khác.
Hạn sử dụng là một trong những thông tin rất quan trọng mà người tiêu
dùng thường phải tìm hiểu kỹ trước khi mua sản phẩm. Thế nhưng, hiện
có rất nhiều sản phẩm lại thiếu hẳn thông tin này hoặc cách ghi nhập
nhằng, lắt léo khiến khách hàng không biết đâu mà lần.
Chị Mai băn khoăn:
“Không biết sản phẩm còn hạn dùng hay không, nhỡ người ta cho những
tuýp kem hết hạn sử dụng vào một cái hộp giấy ghi hạn dùng còn 2 - 3
năm nữa thì làm sao khách hàng biết được. Trong khi đó, vỏ hộp giấy
không dán tem niêm phong. Tôi nghĩ nhà sản xuất nên in hạn dùng cụ thể
trên từng sản phẩm, cả hộp trong lẫn vỏ ngoài, vì những thông tin như
thế này không bao giờ là thừa”.
Trường hợp hạn sử dụng không in trên vỏ những sản phẩm bên trong mà chỉ
in trên bao bì, vỏ hộp bên ngoài xảy ra khá phổ biến, nhất là với
thực phẩm chức năng, thuốc hay các hộp bánh kẹo.
Chẳng hạn như một
hộp thực phẩm chức năng A.O. loại lớn gồm 30 gói bên trong có giá bán
phổ biến trên 1,6 triệu đồng, nhưng hạn dùng chỉ in bên ngoài vỏ hộp,
còn các gói bên trong cũng ghi rất nhiều thông tin nhưng lại vắng bóng
hạn dùng.
Hộp Vitamin E loại
100% natural E – 200 iu của P.P. trên nhãn hiệu dán ở vỏ hộp (bằng
tiếng Anh) có dòng chữ màu xanh ghi chỉ dẫn, thành phần, cách bảo quản,
nơi sản xuất. Tuy nhiên, ngày sản xuất hay hạn sử dụng lại không có
trong những dòng chữ chính thống này mà được in riêng ở một góc bằng
loại mực đen dành trong photo văn bản, nếu lấy móng tay cạo có thể bị
mờ. Bên cạnh đó, dưới đáy hộp hay trên nắp, không có dòng chữ nào ghi
hạn dùng.
Chị C., ngụ ở ngõ
212 Kim Giang (Hà Nội), mua sản phẩm trên từ một người chuyên phân phối
mặt hàng này cho biết, chị không hề xóa hạn dùng nhưng mới được
hơn hai tháng mà dòng chữ này đã bị mờ tịt, khiến chị không nhớ nổi hạn
dùng đến khi nào.
“Tôi có cảm giác đơn
vị nhập khẩu hoặc phân phối tự ghi hạn sử dụng vào sản phẩm nên không
yên tâm. Thông thường một sản phẩm có uy tín phải in ngày sản xuất/ hạn sử dụng dập nổi trên vỏ hộp và trên nhãn hiệu không quên chú thích
dùng bao lâu sau ngày sản xuất hay hạn sử dụng xem trên nắp/ đáy hộp”,
chị C. nói.
Ngoài những vấn đề
trên, người tiêu dùng còn gặp phải nhiều trường hợp “dở khóc dở cười”
với quy định ghi ngày sản xuất và hạn dùng trên sản phẩm.
Hiện rất nhiều mặt
hàng có cách ghi ngày sản xuất và hạn sử dụng phổ biến như sau: HSD: 18/24/30 tháng từ ngày sản xuất. NSX: xem trên bao bì sản phẩm. Tuy
nhiên, lật khắp bao bì vẫn không thấy ngày sản xuất đâu. Nhiều khách
hàng gặp trường hợp này nhưng nhìn hàng vẫn còn mới, lại đang vội nên
vẫn "tặc lưỡi" mua vì cho rằng: “Hạn dùng cả 2 - 3 năm nên làm sao mà
hết hạn ngay được”.
Bên cạnh đó, rất
nhiều loại sản phẩm, nhất là mỹ phẩm, nước hoa hay thực phẩm, trên bao
bì chỉ ghi ngày sản xuất, không ghi hạn sử dụng hay lưu ý sản phẩm
dùng được bao lâu sau ngày sản xuất. Ở những trường hợp như thế, khách
hàng chỉ còn biết “mặc định” nước hoa, mỹ phẩm dùng được khoảng 2 - 3
năm sau ngày sản xuất, còn thực phẩm dùng được 6 -18 tháng. Tuy nhiên,
dù những “suy diễn” như vậy có thể đúng nhưng tâm lý khách hàng vẫn
không yên tâm bằng nhà sản xuất ghi rõ ràng ngày sản xuất và hạn dùng
trên từng sản phẩm.
Chị Nhâm, làm kế
toán trưởng cho một công ty xây dựng ở Linh Đàm (Hà Nội), kể, mới đây
chị ra một shop chuyên bán mỹ phẩm Hàn Quốc và có mua một lọ kem chống
nắng cao cấp. Ở dòng chữ mà chị cho là ngày sản xuất có ghi: “MFG:
2010 03 18 36m”. Chị Nhâm băn khoăn không biết ngày sản xuất có phải là
18/03/2010, còn 36m là gì chị không rõ.
Theo chị Hảo, chủ gian hàng
mỹ phẩm Hàn Quốc online trên diễn đàn lamchame.com (với nickname
meNghé) và trên Enbac (với nickname Hảo Anh), cho biết, mỹ phẩm Hàn
Quốc thông thường không ghi hạn sử dụng mà chỉ ghi ngày sản xuất trên
vỏ hộp. Quy định ghi là MFG – năm – tháng – ngày (MFG là viết tắt của Manufaturing – ngày sản xuất). Sau đó, thông tin trên bao bì sản phẩm
sẽ nói rõ hạn sử dụng là bao lâu sau ngày sản xuất. Thông thường hạn
dùng là 2 - 3 năm, với son môi nước hay mascara mắt, hạn dùng có khi
chỉ 6 tháng (sau khi mở nắp). Có một số hãng thì sẽ chú thích rõ phía
sau ngày sản xuất các ký tự 24m hoặc 36m…, nghĩa là hạn sử dụng sau
ngày sản xuất là 24 hoặc 36 tháng….
Chị Hảo cho rằng,
khi các đơn vị nhập mỹ phẩm nước ngoài về phân phối trong nước thì
phải dán mẫu giấy lên vỏ hộp ghi phần dịch sang tiếng Việt các thông
tin có trên bao bì, trong đó không quên chú thích về hạn dùng để khách
hàng yên tâm.
Mới đây, trên diễn
đàn lamchame.com có một thành viên có nickname là thangco kể, một lần
đi hội chợ tại Hà Nội vào cuối tháng 4, chị mua một lọ kem chống nắng
của Nga. Khi về bóc miếng giấy ghi mức giá ra, chị thấy dòng chữ bị dán
đè lên có nội dung “04_2010_235”. Các thông tin trên bao bì toàn ghi
bằng tiếng Nga nên chị băn khoăn không biết lọ kem chống nắng còn hạn
dùng không. Chị còn e ngại rằng có lẽ lọ kem đã hết hạn nên người bán
mới dán giá đè lên đó.
Thật tình cờ, hai
ngày sau, chủ gian hàng mỹ phẩm tại hội chợ trên, cũng là một thành
viên của diễn đàn lamchame với nickname Luckybaby đã vào giải thích, mỹ
phẩm Nga có hai cách ghi ngày sử dụng.
Một là ghi ngày hết hạn: trên phần đáy hộp sẽ in dập nổi ngày và dưới bao bì có dòng chữ
giải thích sử dụng trước ngày ghi trên đáy hộp.
Hai là ghi ngày sản xuất: trên phần đáy hộp sẽ in dập nổi ngày và dưới bao bì sẽ ghi dòng
chữ thời hạn sử dụng là bao nhiêu tháng.
Nhìn chung, cách ghi
hạn sử dụng của sản phẩm hiện nay vẫn khiến khá nhiều người tiêu dùng
lo ngại, thắc mắc. Thay vì ghi rõ ràng trên bao bì thành hai dòng
ngắn gọn:
NSX (ngày sản xuất) và HSD (hạn sử dụng), nhiều mặt hàng,
sản phẩm lại có những quy tắc ghi rườm rà, nhập nhằng, lắt léo hoặc bỏ
qua. Với các mặt hàng nhập ngoại, điều này có thể có một phần nguyên
nhân từ quy định ghi nhãn hàng hóa của các nước trên thế giới. Tuy
nhiên, thiết nghĩ các đơn vị nhập khẩu, phân phối cần phải chú thích
lại rõ ràng hạn dùng để người tiêu dùng Việt yên tâm hơn khi mua hàng.